"U máu", "bướu máu", hay Bất thường mạch máu là một bệnh lý rất hay gặp ở trẻ em. Tuy nhiên, việc chẩn đoán và điều trị những tổn thương này trong một thời gian dài gặp nhiều khó khăn, một phần do thuật ngữ “u máu”, "bướu máu" (Angiomas, Hemangiomas) đã được sử dụng lẫn lộn cho nhiều loại bất thường mạch máu rất khác nhau. Năm 1996, Hiệp hội quốc tế nghiên cứu về các bất thường mạch máu (ISSVA -International Society for the Study of Vascular Anomalies) dựa trên phân loại của Mulliken và Glowacki (1982), đã phân chia các bất thường mạch máu thành 2 nhóm lớn gồm u mạch máu (vascular tumors) và các dị dạng mạch máu (vascular malformations). |
U mạch máu (vascular tumors) là những tổn thương tăng sinh các tế bào nội mô, thường xuất hiện trong những tuần đầu sau khi sinh, phát triển nhanh chóng trong những tháng đầu, sau đó dừng phát triển và tự biến mất sau nhiều năm.
Nhóm u mạch máu bao gồm cả các khối u khác hiếm gặp hơn như u hạt sinh mủ, u mạch dạng búi, u mạch nội mô dạng kaposi… (pyogenic granuloma, tufted angioma, kaposiform hemangioendothelioma, congenital hemangioma…).Thuật ngữ u mạch máu trẻ em (infantile hemangioma hoặc hemangioma of infancy) đã được đề nghị cho các u mạch máu thông thường ở trẻ em để phân biệt với các khối u mạch máu khác.
Hình 1. Hình ảnh điển hình của các u mạch máu trẻ em: Thể nông (trái), thể sâu (giữa), thể hỗn hợp (phải).
Dị dạng mạch máu (vascular malformations) là sự phát triển bất bình thường cấu trúc hình thể của mạch máu trong quá trình phát triển phôi thai (giãn rộng, thành mỏng, có hoặc không các shunt…), xuất hiện từ lúc sinh, lớn lên tỉ lệ thuận với sự tăng trưởng của trẻ, có thể nặng hơn nhưng không có sự tăng sinh bất thường tế bào nội mô và không bao giờ tự thoái lui.
Hình 2. Hình ảnh lâm sàng các dị dạng tĩnh mạch.
Các dị dạng mạch máu bao gồm dị dạng mao mạch, dị dạng tĩnh mạch, dị dạng bạch mạch, dị dạng động mạch, và các thể phối hợp như dị dạng tĩnh mạch-bạch mạch, mao mạch-tĩnh mạch….
Các dị dạng mạch máu còn được phân chia thành nhóm dị dạng mạch máu dòng chảy chậm (slow-flow): CM, VM, LM và các dị dạng mạch máu dòng chảy nhanh (fast-flow): AM, AVM, AVF.
Hình 3. Hình ảnh lâm sàng các dị dạng mao mạch (trước kia hay gọi là "u máu phẳng" hoặc "vết rượu vang").
Không giống các phân loại trước đây, phân loại mới này là hệ thống phân loại thực hành, có thể áp dụng dễ dàng trong chẩn đoán và giúp định hướng cho sự điều trị. Một khi chẩn đoán được xác định, bác sĩ có thể đánh giá được tiến triển tự nhiên của tổn thương và vì vậy thuận lợi hơn trong việc lập kế hoạch điều trị. Phân loại mới của ISSVA hiện nay đã trở thành hệ thống phân loại các "u máu", "bướu máu" hay bất thường mạch máu được chấp nhận rộng rãi nhất trong y văn.
Hình 4. Hình ảnh dị dạng bạch mạch với những ổ nhỏ không tín hiệu và nhiều vách ngăn trên siêu âm.
Phân loại của ISSVA có thể được áp dụng cho tất cả các chuyên ngành có liên quan đến các bệnh lý "u máu" từ nhi khoa, da liễu, chẩn đoán hình ảnh, ngoại khoa đặc biệt là phẫu thuật hàm mặt, tạo hình và là ngôn ngữ chung cho phép đánh giá, so sánh các kết quả, các phương pháp điều trị.
Mặc dù sự chấp nhận ngày càng tăng của sơ đồ phân loại này, sự lẫn lộn trong cách gọi tên các "u máu", "bướu máu" trong y văn vẫn còn rất phổ biến.
Phân loại của ISSVA về các bất thường mạch máu (Vascular Anomalies
Các u mạch máu (Vascular Tumors) | Dị dạng mạch máu (Vascular alformations) |
- U mạch máu trẻ em (Infantile Hemangioma) - Các u mạch máu hiếm gặp khác (tufted angioma, kaposiform hemangioendothelioma, congenital hemangioma, pyogenic granuloma …) |
- Mao mạch (Capillary) - Bạch mạch (Lymphatic) - Tĩnh mạch (Venous) - Động mạch (Arterial) - Các thể phối hợp (CVM, CLM, AVM…) |